Ninh Bình là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, nơi phát tích và kinh đô của nhà Đinh và nhà Tiền Lê
Hà Nam tuy không phải là kinh đô nhưng lại có vai trò quan trọng trong lịch sử thời Đinh – Lê, đặc biệt là liên quan đến quê hương và các hoạt động của các nhân vật lịch sử.
Vào thời triều đại Ngô- Đinh- Tiền Lê- Lý (938- 1224), nơi đây là vùng đất căn bản- địa bàn trọng yếu cung cấp lương thảo, khí giới, nhân tài, vật lực để tướng quân Trần Lãm góp sức với Ngô Quyền làm nên chiến thắng Bạch Đằng, đánh tan quân Nam Hán của tướng Hoàng Thao; mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc; cũng là “hậu cứ” quan trọng giúp Lê Hoàn bình định nước Chăm Pa, ổn định biên cương phía Nam và chống quân Tống xâm lược từ phương Bắc.
Ninh Bình và Hà Nam là hai vùng đất gắn liền với sự nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn, đặc biệt là Cố đô Hoa Lư. Dấu ấn của họ không chỉ giới hạn ở Ninh Bình mà còn lan tỏa sang Hà Nam và Nam Định, thể hiện qua các di tích và truyền thuyết.
Đinh Bộ Lĩnh đã chọn Hoa Lư làm kinh đô, xây dựng thành trì, cung điện, đặt nền móng cho một nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên của Việt Nam – Đại Cồ Việt. Địa thế hiểm yếu của Hoa Lư với núi non bao bọc đã được ông tận dụng tối đa cho việc phòng thủ.
Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng là ngôi đền uy nghiêm được xây dựng trên nền cung điện cũ, là nơi tưởng nhớ công lao thống nhất đất nước và xây dựng quốc gia của ông.
Núi Mã Yên (nơi vua Đinh Tiên Hoàng được an táng), động Am Tiên (nơi vua Đinh Tiên Hoàng từng bị giam giữ), các dấu tích thành quách, hào lũy còn sót lại đều là những minh chứng hùng hồn cho sự nghiệp của Đinh Bộ Lĩnh.


Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) ở cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.
Trên mảnh đất Hoa Lư, Lê Hoàn-vua Lê Đại Hành kế thừa và phát triển kinh đô, trung tâm chính trị, quyền lực.
Sau khi nhà Đinh suy yếu, Lê Hoàn lên ngôi, lập ra nhà Tiền Lê và tiếp tục đóng đô ở Hoa Lư. Ông đã củng cố và phát triển kinh đô, lãnh đạo quân dân đánh tan quân xâm lược Tống, bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Đền thờ Vua Lê Đại Hành tọa lạc gần đền thờ Vua Đinh, ngôi đền này là nơi tôn vinh những đóng góp to lớn của ông trong sự nghiệp chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.
Các công trình kiến trúc dưới thời Tiền Lê, Hoa Lư tiếp tục được xây dựng và mở rộng, nhiều công trình mang dấu ấn kiến trúc đặc trưng của thời kỳ này đã được tìm thấy qua các cuộc khảo cổ. Chùa Nhất Trụ với cột kinh Phật độc đáo cũng là một minh chứng.
Dấu ấn văn hóa thời Đinh-Lê lan tỏa sang Hà Nam, Nam Định
Quê hương Lê Hoàn là vùng đất Liêm Xuyên (nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Tại đây còn lưu giữ một số di tích và truyền thuyết liên quan đến thời niên thiếu và những hoạt động ban đầu của ông.
Đền Lăng (xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam) được xem là sinh từ thời Vua Đinh, sau này gắn liền với những hoạt động quân sự buổi đầu của Lê Hoàn.
Truyền thuyết về Đinh Bộ Lĩnh ở vùng đất Nam Định. Vùng đất Nam Định cũng có những câu chuyện, truyền thuyết liên quan đến quá trình Đinh Bộ Lĩnh thu phục các sứ quân, trong đó có sứ quân Phạm Phòng Át ở Cát Đằng (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Đình Bườn (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) thờ Đinh Triều Quốc Mẫu Đàm Thị Thiềm, thân mẫu của Đinh Bộ Lĩnh, cùng lăng mộ và miếu thờ hai tướng Phùng Gia và Cao Mộc gần đó.
Miếu Viết (huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định) thờ Đinh Tiên Hoàng và Hoàng hậu Dương Vân Nga, ghi nhớ công trạng của bà.
Đền làng Bịch (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) cũng là một di tích liên quan đến thời Đinh.


Đền thờ vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) ở cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ảnh: Xuân Lâm.
Vua Đinh Tiên Hoàng (924 – 979)
Vua Đinh Tiên Hoàng tên thật là Đinh Bộ Lĩnh, sinh năm Giáp Thân (924) tại làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Ông xuất thân trong một gia đình hào trưởng có thế lực ở địa phương.
Từ nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã nổi tiếng là người có chí khí, tài năng và có tài chỉ huy đám trẻ mục đồng đánh trận giả.
Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân (966 – 968)
Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước rơi vào cảnh cát cứ của 12 sứ quân. Với tài năng quân sự và chính trị, Đinh Bộ Lĩnh đã lần lượt đánh bại các sứ quân, thống nhất đất nước, chấm dứt thời kỳ loạn lạc.
Đinh Tiên Hoàng thành lập nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt (968)
Năm Mậu Thìn (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Ông xây dựng bộ máy nhà nước trung ương tập quyền, ban hành luật pháp, định ra phẩm hàm quan lại, khẳng định chủ quyền quốc gia.
Đinh Tiên Hoàng chú trọng xây dựng quân đội hùng mạnh, ổn định chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của quốc gia.
Năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại.
Vua Lê Đại Hành (941 – 1005)
Vua Lê Đại Hành tên thật là Lê Hoàn, sinh năm Tân Sửu (941) tại làng Trung Lập, huyện Thanh Liêm (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Ông xuất thân trong một gia đình nghèo khó. Lê Hoàn có sức khỏe hơn người, giỏi võ nghệ và mưu lược. Ông từng phục vụ dưới triều nhà Đinh với chức Thập đạo Tướng quân.
Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng bị sát hại, triều đình rối ren. Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Thái hậu Dương Vân Nga và các tướng lĩnh đã tôn Lê Hoàn lên làm vua, lập ra nhà Tiền Lê.
Vua Lê Đại Hành đánh bại quân Tống xâm lược (981)
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Hoàn, quân và dân Đại Cồ Việt đã đánh tan cuộc xâm lược quy mô lớn của nhà Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập của đất nước.
Vua Lê Đại Hành bình Chiêm (982 – 983)
Lê Hoàn đã tổ chức các cuộc chinh phạt Chiêm Thành, mở rộng lãnh thổ về phía Nam và củng cố sức mạnh của quốc gia.
Vua Lê Đại Hành xây dựng và phát triển đất nước
Trong thời gian trị vì, Lê Hoàn chú trọng phát triển nông nghiệp, thủy lợi, giao thông, xây dựng quân đội mạnh, giữ vững an ninh trật tự, tạo điều kiện cho đất nước thái bình, thịnh vượng. Ông cũng quan tâm đến việc bang giao với các nước láng giềng.
Vua Lê Đại Hành qua đời vào năm 1005. Lê Hoàn mất năm Ất Tỵ (1005), được táng tại Trường Xuân lăng.
Nguồn: https://danviet.vn/sap-nhap-tinh-ha-nam-ninh-binh-nam-dinh-ket-noi-khong-gian-van-hoa-thoi-dinh-le-trung-tam-la-co-do-hoa-lu-d1333252.html